Đăng ký beat mới!.

Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012

Kiến thức mix nhạc - Compressor

Nói về comp thì hiện tại có 2 loại là mutiband comp và loại phổ biến nhất là fullband comp. Các thương hiệu sản xuất thì cũng rất nhiều , từ rẻ tiền đến đắt tiền. 

thường thì người ta kết hợp thêm các tính năng expander, gate , limiter để làm thành 1 bộ compander hoàn chỉnh. Mặc dù cũng có sản xuất các bộ gate riêng, nhưng chủ yếu dùng cho nhạc cụ. Như vậy trên 1 comp fullband thông dụng sẽ gồm 3 thành phần theo ngưỡng threshold từ thấp đến cao : expander/gate , compressor và limiter . Trong đó, quan trọng nhất , phức tạp hơn cả là compressor. 

Expander/gate đựoc dùng để ngăn tạp âm nền, cắt bỏ micro nhạc cụ khi chưa có tín hiệu....
Comp dùng để khống chế, điều hòa mức tín hiệu , nhất là các tín hiệu có mức thay đổi âm lượng lớn như vocal , hoặc dùng để làm thiết bị bảo vệ với tính năng tương tự limiter.
Limiter : ngưỡng cuối cùng để bảo vệ , khi xác định threshold của limiter thì tín hiệu âm thanh không vuot quá được ngưỡng này .

Các thông số cơ bản của 1 compressor gồm có :
- Threshold : ngưỡng xác định điểm hoạt động của comp.
- Ratio : tỉ lệ nén, từ 1:1 đến infinity:1 
- Attack time : thời gian nén
- Release time : thời gian hồi phục trạng thái sau nén (nhả nén).
- Gain : tăng giảm âm lượng tại ngõ ra, đa phần ta tăng gain này lên để bù phần âm thanh đã bị nén.
- Knee : kiểu nén , thường thường có 2 giá trị : hard-knee , và soft-knee, trên các comp digital có thể chọn được nhiều giá trị giữa hard và soft knee


Như trên bác Thaoprosound đã nói qua về các công cụ được dùng trong quá trình xử lý dinamic của âm thanh và các thông số chính. Nhưng đối với rất nhiều anh em những thông số đó chẳng có nghĩa lý gì thậm chí có dịch cả ra tiếng việt nghe cũng sẽ như vịt nghe sấm. Để có thể bàn luận được về các loại compressor và các phương thức setup thì những caí đầu tiên cần hiểu là:
- nguyên lý làm việc của compressor
- các thông số chính và nếu thay đổi những thông số này thì nó sẽ ảnh hưởng đến âm thanh ra sao v.v.... 
Về những cái này ko phải ai cũng biết thậm chí có cả các bác làm nghề thu âm. Ví dụ như mình đã dùng compressor để biểu diễn từ rất lâu nhưng cũng chỉ hiểu nó làm cho âm thanh đều và dày hơn. Còn tại sao như vậy và các thông số khi chỉnh có tác dụng ra sao (tất nhiên ý nghĩa cơ bản thì hiểu nhưng nó tác động ra sao thì ko hiểu) nên toàn tự mò dựa theo tai nghe là chính! Đến khi có việc cần phải **ng chạm nhiều đến vấn đề này mới tự đọc và nghiên cứu. Theo như những gì mình tiếp thu được mình xin phép mạo muộn trình bày vấn đề này theo cách hiểu của mình:
1-Cách làm việc của Compressor
Compresorr là một công cụ thông dụng nhất trong quá trình xử lý dinamic âm thanh và nó tác động trực tiếp đến việc thay đổi dinamic rage (khoảng tầm âm giữa đoạn nhỏ nhất và lớn nhất của sóng âm thanh và được đo bằng đơn vị De xi ben=Db). Về cách làm việc có thể ví nó như một amply mà hệ số tăng âm của nó phụ thuộc hoàn toàn vào âm lượng của nguồn âm được đưa vào input của nó. Thường trong đa số trường hợp nguồn âm vào input cũng chính là nguồn âm được trích ra một phần từ sóng âm cần xử lý và độ mạnh hay yếu của sóng âm sẽ điều khiển amply tăng nhiều hay ít một cách tự động
Khi đã hiểu nguyên tắc làm việc của compressor ta có thể định nghĩa như sau:
Compressor là một công cụ có tác dụng tự động tăng hoặc giảm cường độ âm thanh nếu cường độ đó đạt đến ngưỡng (Threshold) đặt trước và theo một hệ số tăng giảm(Ratio) do người dùng quyết định
Như vậy các bác đã hiểu nguyên tắc cũng như cách làm việc của Compressor. Nhưng nhiều bác chắc sẽ thắc mắc: nếu vậy thì nó có tác dụng gì? Như trên ta đã thấy, Compessor có tác dụng nén sóng âm lại một cách tự động sao cho các sóng âm đều nhau. Về mặt vật lý là vậy nhưng đối với tai nghe con người nguồn sóng âm được nén đều có thể ví nôm na một cách hình tượng như một nắm bông gòn được bóp nhẹ lại, nó sẽ chặt hơn và sẽ đặc lại hơn. Do đó âm thanh khi được nén cho đều nghe sẽ có cảm giác đặc hơn, dày hơn và ngân dài hơn. Nhưng nếu ta càng nén mạnh thì nắm bông sẽ biến dạng đặc lại và ko còn giống nắm bông gòn xốp như lúc đầu nữa. Âm thanh cũng vậy, với các thông số nén (ratio) , thông số ngưỡng nén (Threshold) v.v.v.v. càng lớn thì sự biến dạng của sóng âm càng lớn, thậm chí nghe như robot luôn. Do đó setup Compressor cho chính xác với từng trường hợp cụ thể là cả một vấn đề, nó có thể làm hay âm thanh lên rất nhiều và cũng có thể phá hỏng hoàn toàn!!!.

2-Các thông số của Compressor
a-Thông số đầu tiên là ngướng nén (Threshold)
Đây là thông số được đo bằng Db, và nếu cường độ âm thanh vào input của compressor lớn hơn ngưỡng này thì compressor bắt đầu nén theo tỷ lệ nén (ratio) cho trước
Như ví dụ dưới, các bác sẽ thấy đồ thị âm thanh bị nén lại ra sao nếu ta đặt ngưỡng nén (Threshold) là các giá trị -20db, -10db, 0db, 10db. 
Các bác sẽ thấy đường thằng đồ thị khi đến điểm Threshold là bắt đầu đổi hướng như đồ thị dưới 
Trong thực tế với mỗi nhạc cụ nàm trong dải tầm âm nhất định và phụ thuộc vào phong cách nhạc mà ta sẽ chọn các ngưỡng nén (Threshold) khác nhau. Ngưỡng nén càng thấp thì đoạn âm thanh bị nén càng nhiều và như vậy âm thanh sẽ đặc hơn nhưng biến dạng rất nhiều. Thường những sự biến dạng lớn nhưng âm thanh lại đặc hơn thường chỉ áp dụng cho Drums kick bass, Guitar bass v.v.v.v. và còn tùy vào trường phái nhạc và ý tưởng của người hòa âm
[/URL][Only registered and activated users can see links] ([Only registered and activated users can see links])

b-Thông số thứ hai là tỷ lệ nén (Ratio): Đây chính là tỷ lệ mà ta quyết định âm thanh bị nén bao nhiêu lần. Tỷ lệ càng lớn thì âm thanh bị nén càng nhiều. Như ví dụ dưới ta sẽ ta sẽ thấy nếu tỷ lệ nén (Ratio) là vô cùng thì âm thanh khi đến ngưỡng nén sẽ bị bẻ ngang và ko vượt to lên được. Như vậy đây chính là nguyên tắc làm việc của Limiter và nếu định nghĩa đúng thì Limiter chính là một Compresor có tỷ lệ nén (Ratio) là vô cùng. Nếu với tỷ lệ nén là 2:1 thì âm thanh khi vượt qua ngưỡng nén sẻ chỉ tăng được 1/2, như hình dưới ta đặt ngưỡng nén là 0db, nếu âm thanh vào input vuọt qua là 20db thì tín hiệu ra output sẽ chỉ là 20db:2=10db. Còn nếu tỷ lên nén là 1:1 thì âm thanh sẽ ko bị nén và đồ thị sẽ tăng là một đường thẳng như hình minh họa bên dưới
[Only registered and activated users can see links] ([Only registered and activated users can see links])
Thông số Ratio kết hợp với thông số Threshold sẽ quyết định nhiều đến việc âm thanh bị nén ít hay nhiều. Nôm là là âm thanh sẽ dày hay mỏng nhưng đồng thời cũng sẽ tỷ lệ thuận với sự biến dạng âm thanh gốc. Do đó ở đây ta cần tìm được một điểm vàng cho mỗi trường hợp riêng để âm thanh dày đáp ứng đúng yêu cầu nhưng ko biến dạng

c-Thông số Attack time và thông số Release time:
Thông số Attack time có thể hiểu nôm na là thời gian compresor bắt đầu nén khi âm thanh đạt đến ngưỡng nén (Threshold) và được đo bằng ms. Ví dụ nếu Attack time=10ms thì khi âm thanh đạt đến ngưỡng nén sau 10ms compresor mới bắt đầu nén
Thông số Release time có thể hiểu như thời gian compresor thôi nén sau khi âm thanh hạ xuống dưới ngưỡng nén và cũng được đo bằng ms. Ví dụ nến Release time=10ms thì sau khi âm thanh tụt xuống dưới ngưỡng nén thì sau 10ms compresor mới ngừng nén. 
Hai thông số này sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi nhanh hay chậm của âm thanh nén và đó sẽ dẫn đến âm thanh sau khi nén bị sắc hơn hay nhòe hơn. Ở rất nhiều Compresor hai giá trị này thường để tự động và ta chỉ cẩn chọn kiểu nén thôi

d-Thông số kiểu nén Knee. Thông số này quyết định sự nối tiếp giữa đoạn ko nén với đoạn bị nén. Sẽ có hai giá trị hard-knee tức là âm thanh sẽ bị thay đổi tức thời và soft-knee nghĩa là âm thanh sẽ thay đổi dần như đồ thị bên dưới. Với thông số hard-knee âm thanh khi bị nén nghe sẽ cứng hơn phù hợp với các nhạc cụ cần độ gắt và thể loại nhạc mạnh còn soft-knee đuơng nhiên sẽ ngược lại
[URL="[Only registered and activated users can see links]"][Only registered and activated users can see links] ([Only registered and activated users can see links])

Ngoài ra còn giá trị Gain để ta có thể tăng giảm được âm được đưa ra đường output của compresor. Giá trị này thường ùng để chỉnh âm thanh ra cho cân vì sau khi nén cường độ âm thanh sẽ bị hụt đi chút ít

Kết luận lại vai trò của compresor là nén âm thanh cho đều một cách tự động và như vậy làm cho âm thanh nghe dầy mọng và ngân dài hơn đồng thời tỷ lệ nén cũng tác động trực tiếp đến sự biến dạng của âm thanh. Do đó ta có thể ứng dụng compresor ở bất cứ chỗ nào cần làm cho âm thanh dày hơn và ngân hơn nhưng cần hiệu chỉnh cho thật phù hợp vơi yêu cầu

Sau khi hiểu hết được các thông số trên các bác đã có thể bắt đầu thí nghiệm với các thông số của Compersor được rồi. 
Các bác nên nhớ các thông số chính là vậy nhưng với mỗi một Compressor khác nhau các thông số có thể bớt đi hoặc phối hợp hai ba thông số lại. Ví dụ các thông số như Attack time , Release time hoặc Knee có thể ko có ở nhiều compresor vì đã được tự động hóa. Compresor lại có thể là loại 1 đường, 2 đường và nhiều hơn, hoặc có thể là multiband và làm việc chỉ trong từng giải tần số nhất định thường dùng như EQ và hiệu chỉnh trong từng dải tần âm thanh.
Ngoài ra có một số compresor có đường inset input cho phép điều khiển conpressor từ nguồn âm thanh khác. Cái này có ứng dụng rất hay. Ví dụ trong nhạc rock, nếu ta trích một phàn âm thanh của vocal vô đường inset này , còn comperson nối với đường guitar Distorsion. Kết quả khi ca sĩ hát thì tiếng guitar rock sẽ tự động bị nén nhỏ đi và ko át giọng ca sỹ. Cách ứng dụng này còn áp dụng được rất nhiều trường hợp khác như khi chơi live để Bass và Drum hoàn toàn ăn khớp với nhau v.v.v.v.v..v.


- Khi setup compressor thì việc căn chỉnh cho hài hoà các thông số là vô cùng quan trọng. Nó ảnh hưởng đến đặc tính âm thanh tại ngõ output của comp (hay - dở là do sự căn chỉnh này). Kỹ năng này tuỳ thuộc vào kinh nghiệm, tay nghề của người làm âm thanh.
- Một thông số khá quan trọng, không thể bỏ qua, đó là chỉ thị Gain Reduction (mức suy giảm của tín hiệu bị nén). Ở trên hardware hay software đều có chỉ thị này. Nó cho ta biết mức nén tín hiệu là bao nhiều. Tuỳ thuộc vào nguồn âm ta đặt comp khác nhau thì sẽ có các kết quả khác nhau : comp cho bộ trống jazz (kick, tom, cymbal, hi-hat, snare...), comp cho nhạc cụ ( các loại guitar, kèn, sáo, keyboard, piano...), nhất là comp cho vocal (một nguồn âm có mức âm lượng thay đổi rất lớn)... Hãy đặc biệt chú ý đến thông số này khi thay đổi giá trị của threshold, ratio, attack time, knee. 

- Trong môi trường studio hay live music thì việc căn chỉnh cho compressor cũng có sự khác nhau (với cùng một nguồn âm). Bởi vì trong live music, setup comp sai ở các kênh có dùng micro thu tín hiệu sẽ là 1 nguyên nhân làm tăng khả năng bị feedback.

- Nút Auto, trong rất nhiều compressor, cả soft hay hardware có tính năng này, làm nhiệm vụ tự động chọn thông số attack/release time tùy thuộc vào mức thay đổi cường độ tín hiệu của nguồn âm. Tuy nhiên, xin lưu ý chế độ Auto không phải là giá trị tốt nhất trong đa số các trường hợp. Khi bạn đã nắm được kỹ thuật, đã làm chủ được thiết bị, thì hãy dùng chế độ Manual để tạo ra chất âm ưng ý nhất, hoàn hảo nhất. Còn ngựơc lại, nếu bạn chưa rành thì đừng chỉnh loan lên, hãy chọn Auto cho nó "lành" :D

- Ngõ Side-chain của compressor rất hữu dụng. Ngoài tính năng như bác HamVui đã kể trên (gọi là kỹ thuật Ducking) , còn cho phép ta insert 1 Equalizer (có thể là Parametric hoặc Graphic EQ) để thực hiện kỹ thuật de-essing & de-pumping (loại bỏ các âm "s", "x", "th" "ph", "b"... có thể làm xấu đi âm thanh của vocal). Nếu dùng phần mềm thì cũng có các plugin khá mạnh để ta xài.

Nói về compressor thì nhiều thông tin lắm, trên khuôn khổ 1 bài viết thì không thể chia sẻ hết được. Mời các bác cùng tham gia thảo luận cho xôm tụ




Tui là dân hai lúa dưới ruộng chơi âm thanh nên tui thấy Compressor để là như ri : 
- Khi nói về nén âm thanh thì nói cho dễ hiểu là ta cân chỉnh âm thanh làm sao cho lợn khi nó hét hết cỡ hay là ủn ỉn thì thầm thì lượng âm thanh vẫn bằng nhau . ( Khi nghe nhạc CD ta thấy hình như lượng âm thanh lúc nào cũng bằng nhau , CD thì phần nhiều họ nén bằng software )
- Khi nào ta cần Compressor ? Tất nhiên là nhạc sống có ca sĩ hay là có nhạc cụ sống thì ta cần Compressor .
- Compressor cũng có tác dụng giúp giãm bớt phần hú ( feedback ) vì phần gain của OUTPUT level đã bị ta kéo xuống .
- Compressor không phãi là vị cứu tinh cho giàn âm thanh vì khi nén không đúng cách nó sẽ cho tác dụng ngược . Thiếu tiếng thì thầm hay thiếu tiếng hét to .
- Không có cách nào xác định ta nên chỉnh compressor ở đâu và chỉ số như thế nào vì nó hoàn toàn phụ thuộc vào những dụng cụ âm thanh mà bạn đang có .
- Nếu có mixer xịn , loa xịn rất có thể bạn không bao giờ cần tới Compressor ( vì chúng đã có chức năng này trong phần thiết kế rồi nhưng họ không bao giờ nói cho bạn biết ). 

Đàn Tyros có chức năng Compressor trong phần Mixer . Tui không biết PSR-3000 , S900 hay S910 có chức năng này không thì tui không rõ . Anh em có thể vào nghịch phần compressor vô tư mà chẳng sợ hư cái chi .


Trở lại với chủ đề về compressor . Thật ra mình không có một thông số nào nhất định để chỉnh compressor . Compressor cho tiếng hát khác với tiếng ghi-ta . Compressor tiếng ghi-ta khác với tiếng trống ... . Cộng thêm giàn máy khác nhau , không gian khác nhau thì compressor thật ra có thiên hình vạn trạng . Nói như thế thì ai cũng nói được, kiểu như huề cả làng . Thôi thì mình mang thông số thông dụng mà mình hay xài ra coi thử có giúp đỡ chi cho anh em mới vào nghề không nhỉ ?

Lưu ý: Một mixer hoàn hảo là một mixer không cần compressor . 
Cái này tui hông biết có đúng hay không nhưng những tay nhà nghề đều nói vậy . Bất cứ chỉnh sửa nào vào âm thanh đều làm mất đi cái hay nguyên thủy .

Compression cho tiếng hát :

Attack time: 5 ms
Release time: 50ms
Threshold: -10dB
Compression ratio: 5:1

Các bạn để ý thấy tui chọn Attack time- 5 ms thời lượng rất nhanh vì thông thường lợn nó hét lên không biết lúc nào mà lường . Khi nó hạ giọng thì mình cho nó hạ chậm khoảng 50ms là tốt vì nó cứ tưởng là nó hét khá hơn nó hét thiệt . Tui cho Threshold -10dB vì nếu giãm hơn nửa thì có lẻ tiếng của lợn có thể bị nghẹt . Khi chỉnh cho tiếng hét của lợn thì bạn đừng cho threshold giãm nhiều quá vì mình muốn giọng của lợn phải giống giọng thật . Ratio thì tui cho 5:1 tức là khi nó chạm tới cái gối (knee ) và bắt đầu giãm -10dB thì âm lượng cũng giãm đi 5/1 . Có nghĩa là độ lớn âm thanh vào 5 phần thì chỉ nén xuống còn 1 phần mà thôi .

Compression cho tiếng ghi-ta:

Threshold: -20dB
Ratio: 5.0 is to 1
Attack time: 15ms
Release time: 15ms
Bạn thấy tui để Threshold: -20dB cho ghi-ta vì tui hông muốn nó lấn lướt cái giọng hát . Ratio giống nhau , Attach và release tui để khoảng giữa 15ms là tốt .

Compression cho tiếng Bass:

Threshold= -20dB
Ratio: 6 is to 1
Attack time: 40ms
Release time: 80ms

Vì tiếng bass là loại tiếng để giữ nhịp cho tiếng hát cho nên tui để chế độ attach và release lâu hơn . Ratio thì giãm mạnh hơn tiếng ghi-ta và tiếng hát vì mình muốn tiếng bass lúc nào cũng một bực nhất định để giữ nhịp cho giàn nhạc .

Compression cho trống bass:

Cá nhân tui thì tui không compress tiếng trống bass vì tui muốn nó có cái hay nguyên thủy trầm của nó . Bạn dùng cái eq hay cái volume mà căn chỉnh nó . Vả lại nghe trống bass không có mic vào cũng đã phê lắm rồi .

Compression cho tiếng chiêng

Attack: 20ms
Release: 40ms
Threshold: -12dB
Compression ratio: 5:1
Tiếng chiêng cần được nghe cho tự nhiên cho mặc dù nó rất chói . Tui cho nó attach chậm và realease nhanh chút xíu . Nếu nén quá lẹ thì nó làm cho tiếng chiêng không còn bén nửa mà là méo .

Đôi dòng chia sẻ với anh em . Trên đời này không có cái gì là toàn hảo . Bên trên chỉ là những chỉ số thông dụng thôi . Vì theo quan niệm của tui thì cái gì đơn giản nhất là cái làm việc hiệu quả nhất cho dù cấu tạo của nó phức tạp đến bao nhiêu đi nửa . Lấy cái Iphone hay Ipad làm thí dụ . Chúc anh em compression vui vẻ và nhớ cho tui biết thông sô trên cần chỉnh sửa chổ nào cho hợp lý hơn .


Chức năng của mixer và các processor khác như compressor, eq, effect, crossover ... là hoàn toàn khác nhau, phục vụ cho từng mục đích cụ thể, riêng biệt. Nên mỗi thiết bị có 1 nhiệm vụ khác nhau trong giàn máy. Có thể mixer được tích hợp sẵn mạch compressor, effect, crossover, eq(cái này đương nhiên có ở hầu hết các mixer) nhưng tính năng của những phần này không thể bằng các thiết bị rời. 
Có thể bác thấy mixer tốt là không cần compressor, nhưng 2 tính năng của mix và compress là khác nhau. Nếu mixer tốt có thêm compressor tốt thì sẽ hay hơn nhiều phần. 
Cũng giống như 1 cô gái có khuôn mặt đẹp thì không cần trang điểm vẫn cứ đẹp, nhưng nếu chỉ make-up nhẹ nhàng, phù hợp 1 chút nữa thì sẽ còn hấp dẫn hơn, đẹp hơn rất nhiều. Nhưng nếu quá lạm dụng bằng cách tô, trát lòe loẹt thì có thể nhiều người sẽ không thích, gây phản tác dụng. Cách dùng compressor cũng vậy.

Nếu tay "nhà nghề" nào nói như bác trích dẫn ở trên thì em e rằng chưa phải "nhà nghề" đâu. Bởi dùng compressor khó thì rất khó, mà dễ thì cũng rất dễ.
Một ấn phẩm âm nhạc hoàn hảo như CD luôn đạt được 1 CHUẨN MỰC âm thanh tốt nhất mà KHÔNG một giàn nhạc live nào tái hiện được (em không nói là hay hoặc không hay, bởi vì để cảm nhận cái hay còn tùy thuộc vào yếu tố tâm lý khác nữa, mà ở đây chỉ đơn thuần phân tích về khía cạnh kỹ thuật). Lý do rất đơn giản : CD được trải qua rất nhiều công đoạn xử lý, can thiệp kỹ thuật phải nói ở mức hoàn hảo. Chưa đúng, chưa chuẩn lại can thiệp đến lúc chuẩn nhất có thể. Trong rất nhiều công đoạn đó thì compress là không thể thiếu. Nếu toàn bộ các nhạc cụ, vocal chỉ thu trực tiếp (giữ được âm thanh nguyên thủy) mà không xử lý gì thì chắc chắn là nghe rất tệ.

Cái khó của công việc chỉnh sửa là phải phát huy được cái ĐẸP , sự QUYẾN RŨ của âm thanh nguyên thủy. Nó cũng giống như việc mài giũa 1 viên kim cương thô vậy. Cho nên sự can thiệp kỹ thuật chưa tới tầm sẽ làm mất đi cái đẹp nguyên thủy đó, thì thà cứ để thô sơ vậy còn hơn. Câu nói " Sử dụng compressor như con dao 2 lưỡi" là không hề sai. 

Vậy sử dụng compressor như thế nào cho phải? Tất nhiên không có một thông số nào có thể áp dụng cho tất cả mọi trường hợp mà đều đúng , đều hay. Ngay cả các hãng SX cũng đưa ra các thông số chỉ dẫn chung chung, có biên độ giới hạn rộng, và còn khuyến cáo "chỉnh nhưng vẫn phải cảm nhận, đánh giá bằng đôi tai kinh nghiệm để tìm ra thông số phù hợp nhất", như vậy coi bộ hơi khó, không có thông số nhất định nào... Nhưng vấn đề mấu chốt là vẫn có những NGUYÊN TẮC nhất định. Chỉ cần nắm vững nguyên tắc này thì có thể áp dụng compressor ở mọi trường hợp một cách hiệu quả.

GAIN REDUCTION, RATIO, KNEE, ATTACK/RELEASE TIME, là những thông số quan trọng nhất để tạo ra "chất" của âm thanh qua sử lý compress. Sau đó mới đến MAKEUP GAIN (OUTPUT LEVEL) và THRESHOLD. 
- GAIN REDUCTION (GR) là thông số cực kỳ quan trọng, nó cho ta biết âm thanh đã được nén hay chưa, nén ở mức độ nào. Các thông số khác như RATIO, KNEE, ATT/REL TIME... sẽ vô tác dụng nếu như GR không tác động (GR = 0dB). Khi setup thì phải xác định GR maximum, sau đó mới đặt THRESHOLD để GR đạt được mức đã xác định này. Nhưng đa phần người sử dụng lại đặt THRESHOLD trước ở khoảng -5 dB, -10dB... mà không quan tâm xem GR là bao nhiêu, Gain hệ thống là bao nhiêu ??? Vì mỗi hệ thống âm thanh, mỗi cách setup thiết bị sẽ cho ra các giá trị THRESHOLD rất khác nhau. Vậy sao ta lại phải lấy cái thông số có biên độ dao động lớn như vậy làm chuẩn nhỉ ? Với vocal thì GR nên trong khoảng -6dB là tối đa
- ATT time : thông số này quyết định độ nén nhanh hay chậm. Nếu đặt cho vocal thì Live : 10ms~20ms, Studio : 0ms ~ 20ms. Nếu ATT quá nhanh, âm thanh sẽ mượt nhưng dễ bị bí. Nếu quá dài >30ms, âm thanh không có độ tư nhiên.
- REL time : cho vocal em thường để tối thiểu là 700ms, tối đa là 1,2s ~1,5s. Nếu quá ngắn <100ms, âm thanh thiếu độ mượt mà, giảm tác dụng của compressor.
- Ratio : 3:1 ~ 6:1.
- Knee : tùy theo hãng mà có mức soft hay hard knee khác nhau. Nếu là thiết bị digital, cho phép chọn KNEE theo dải , VD từ 1 ~ 10 thì rất tốt. 

Có những nguồn âm có mức biên độ tín hiệu không thay đổi quá nhiều thì có thể cho nén ngay, GR tác động ngay khi vừa có tín hiệu. Còn với vocal thì với đặc điểm biên độ chênh lệch rất lớn, hãy để compressor làm việc khi mức biên độ tín hiệu lớn, còn những lúc trung bình, hoặc hát nhỏ thì đặt threshold sao cho mức GR = -1dB, -2dB hoặc KHÔNG NÉN (GR = 0dB). Chứ setup lúc nào cũng nén, bất kể to nhỏ thì âm thanh sẽ không tối ưu. 

Nếu setup Release time <100ms , thì chỉ nên áp dụng trong công đoạn master trong studio, hoặc compressor tầng thứ 2 với hệ thống âm thanh dùng nhiều compressor.